Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Mưu Trí Thời Tùy Đường 1 - 34-9

Trang 9 trong tổng số 11

Chương 25

Không giống bình thường, giành thắng lợi bất ngờ
Tiêu Tiến khởi binh ở Hồ Nam, mới được 5 ngày đã quy phục được mấy vạn người. Vì thế ông đã tự xưng làm hoàng đế định đô ở Giang Lăng (Giang Lăng, Hồ Bắc ngày nay). Đến năm đầu Đường Vũ Đức (năm 618 sau Công nguyên) đã có đến hơn 40 vạn binh, chiếm cứ cả một vùng rộng lớn, phía nam từ Giao Chỉ, phía bắc đến Hán Thủy, phía tây đến Tam Hiệp, phía đông đến Cửu Giang. Lúc đó nhà Đường đang mưu lược Hà Đông, Trung Nguyên, Tiêu Tiến cũng có ý muốn giữ lại, không muốn tiến về phía bắc vì nhà Đường chủ yếu dựa vào phòng thủ. Năm thứ tư Vũ Đức (năm 621 sau Công nguyên), Lý Thế Dân tiêu diệt được Đậu Kiến Đức và Vương Thế Sung ở ngoài thành Lạc Dương, Lý Uyên bèn lệnh cho Lý Hiếu Cung và Lý Tịnh dẫn binh mã Ba Thục tiến công Tiêu Tiến.
Tháng 9 cũng đúng vào mùa lũ, nước sông Trường Giang dâng cao, sóng to cuồn cuộn. Các tướng sĩ đều cho rằng lúc này không thể dùng thuyền được, chỉ có thể đợi cơn lũ tạm lắng mới tiến quân được. Lý Tịnh lại khuyên Lý Hiếu Cung lập tức tiến quân. Các tướng đều rất bất mãn, không ngờ Lý Tịnh hầm hầm biến sắc nói: "Việc dùng binh quan trọng nhất là khác thường và bất ngờ. Nay quân ta mới tập trung, Tiêu Tiến còn chưa biết, mà cho dù có biết thì ông ta cũng sẽ kết luận như những người bình thường khác là khi nước sông lan tràn như vậy thì không thể tiến quân. Chúng ta cứ lợi dụng mùa lũ, tiến công hết tốc lực, Tiêu Tiến chắc chắn không kịp phòng bị, tất sẽ bị quân ta bắt".
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Lý Hiếu Cung đã chọn cách của Lý Tịnh, đích thân dẫn hơn 2000 chiến hạm cùng với Lý Tịnh tiến công ngay trong ngày hôm đó. Phòng tuyến dọc sông của Tiêu Tiến tuy có mà cũng như không, ngay lập tức bị quân Đường đập tan, thu được hơn 300 chiến hạm. Tiêu Tiến thấy mùa lũ đến nên đã giải tán quân để đi lo việc nông vụ ở các nơi, lúc đó thấy quân Đường đột nhiên xuất hiện trước mắt thì ngay lập tức sao có thể tập trung quân được? Vì thế đành phải dùng các binh sĩ già bày trận nghênh chiến.

Lý Hiếu Cung thấy kế sách của Lý Tịnh ngay từ đầu đã thuận lợi nên nóng lòng muốn tiến đánh. Các tướng sĩ cũng nhao nhao xin đánh. Lý Tịnh lại nói với Lý Hiếu Cung: "Nhất thiết không thể giống như các tướng sĩ có thái độ khinh địch như vậy mà xuất chiến. Lúc này Tiêu Tiến gọi quân đến để cứu viện, tất sẽ thắng, quân ta cứ cho thuyền neo ở bờ Nam, kiên quyết không có động tĩnh gì, khí thế quyết một trận tử chiến của quân địch sẽ tiêu tan trong chốc lát. Đợi đến khi quân địch đều nghĩ rằng chúng ta không dám quyết chiến cùng chúng, rải binh khắp nơi, không giữ chắc được bờ Bắc thì quân ta mới khởi binh, lý nào lại không thắng được?".
Lý Hiếu Cung cố tình nghe theo lời thỉnh cầu quyết chiến của các tướng sĩ, để Lý Tịnh lại giữ doanh trại còn mình thì đem theo các tướng sĩ giỏi xuất chiến. Không ngờ quân địch lấy một chọi mười, đánh cho quân Đường thất bại thảm hại. Lý Hiếu Cung đành phải quay lại giữ bờ Nam.
Quân địch giành được đại thắng đó thì như mở cờ trong bụng đua nhau chèo thuyền ra giữa sông thu nhặt chiến lợi phẩm mà quân Đường vứt lại. Các tướng sĩ nhà Đường vẫn còn sợ hãi không dám nhìn thẳng. Lý Tịnh được sự đồng ý của Lý Hiếu Cung lại cấp xông ra để giết. Các binh tướng của quân địch còn đang đắc ý vênh váo nên không ngờ rằng quân Đường đến đánh, chỉ lo nhanh chóng thoát thân chứ không nghĩ đến việc đánh trả. Quân của Lý Tịnh thả sức truy đuổi, quân địch bị giết vô số, bị đuổi đến tận dưới chân đô thành của Tiêu Tiến, sau đó chia quân đi thu nhặt được vô số chiến hạm.
Lúc này lại đến lượt quân Đường vui mừng, mọi người đều cảm thấy những chiến hạm quý báu khác thường như vậy mà dùng để đánh địch thì chỉ có đánh đâu thắng đấy. Không ngờ Lý Tịnh lại chẳng tỏ ra vui mừng gì, hạ lệnh thả tất cả các chiến hạm thu được đó cho chúng trôi tự do. Các tướng sĩ đương nhiên là cứ nghi hoặc mãi, Lý Tịnh mới giải thích rằng. "Lãnh địa của quân địch phía nam vượt qua Linh Biểu, phía đông là sông, quân ta lại phải tiến sâu vào. Nếu không thể công phá được Giang Lăng ngay lập tức, thì viện binh của địch đã tập trung được ở dọc sông, lúc đó trong ngoài đều có địch, tiến thoái lưỡng nan, dù có chiến hạm tốt đi chăng nữa cũng chằng có tác dụng gì. Không khó để thấy rằng theo cách nghĩ thông thường của viện binh nếu phát hiện thấy ở hạ du hàng loạt chiến hạm của quân Tiêu mà không có người để hỏi thăm thì tất sẽ hiểu lầm rằng đô thành Giang Lăng đã bị quân ta đánh hạ, vì thế mà không dám tuỳ tiện tiến thêm. Do đó chúng ta phải dùng cách đi ngược lại với suy nghĩ thông thường càng thấy thành khó hạ thì càng phải thả số thuyền đó xuống sông để làm cho viện binh của địch nghi hoặc mà dừng lại. Viện binh đến chậm thì Giang Lăng đã là của chúng ta rồi".
Viện binh của Tiêu Tiến thấy dọc sông đều là thuyền bè thì quả nhiên suy đoán một cách sai lầm rằng quân Đường đã đánh hạ được Giang Lăng vì thế mà hoài nghi không tiến thêm nữa. Một số viên quan địa phương vào Giang Lăng triều kiến thấy Giang Lăng đã bị vây chặt thì sợ hãi ùn ùn kéo đến lạy chầu quân lệnh của nhà Đường. Tiêu Tiến chờ mãi chẳng thấy mưu thần lẫn viện binh đâu thì chẳng bao lâu sau đã phải mở cổng thành xin hàng.
Tướng sĩ nhà Đường hùng dũng vào thành, ngang ngược cướp bóc. Các tướng lại còn hùng hồn nói "Tướng địch không chủ động đến hàng, chết còn là may chán, lẽ ra còn phải tịch thu hết gia sản để thưởng cho quân sĩ". Lý Tịnh lại nói với Lý Hiếu Cung khác hẳn mọi người "Vương sư vào thành nên để tiếng nghĩa bay xa, những người sẵn sàng chết vì chủ, thực là trung thần thì sao lại cho là phản nghịch! Nếu quân ta ưu đãi các "trung thần” thì nhà Đường chẳng mất tí công sức nào vẫn được hàng loạt "trung thần" chắp tay đến xin hàng .

Lý Hiếu Cung lại chọn kế sách của Lý Tịnh, ra quân lệnh nghiêm cấm việc cướp giết. Vì thế mà các châu huyện ở phía nam nghe tin đều đến quy phục. Hơn 10 vạn viện binh cũng cởi giáp xin hàng, tranh làm "trung thần”. Nhà Đường đã bình định được phía nam một cách dễ dàng.
Thế nào là "kỳ"? Tức là không giống bình thường. Vì sao phải khác thường? Chính là nằm ngoài dự liệu, đánh vào chỗ hở của chúng. Lý Tịnh bất ngờ tiêu diệt Tiêu Tiến, mất ít sức mà vẫn giành được hiệu quả cao, điều kỳ diệu là ở chỗ khác thường, hành sự khác với suy nghĩ của người bình thường. Trong đấu tranh quân sự cần phải dựa vào sự khác thường để giành thắng lợi, trong kinh doanh thương mại cũng kỵ nhất là việc gây ồn ào như ong vỡ tổ mà đòi hỏi phải một mình mở một lối đi riêng, dựa vào sự khác lạ để hấp dẫn người khác, dựa vào sự hiếm hoi để làm họ dao động, dựa vào một điểm độc đáo để tung hoành thế giới.
Năm 1990 để ủng hộ cho Thế vận hội châu á, nhân dân cả nước đã sôi nổi quyên góp tiền hàng. Không ít doanh nghiệp cũng đứng vào đội ngũ những người quyên hiến đó, đồng thời không tiếc tiền của để các bản tin làm quảng cáo. Nhà máy rượu Nghi Tâm Hồng Lâu Mộng cũng muốn làm một chút gì đó cho Thế vận hội, đồng thời cũng muốn thông qua Thế vận hội để làm một việc gì đó cho chính mình.
Mọi người chắc đều nghĩ đến việc nhà máy rượu đó sẽ quyên góp mấy trăm hoặc mấy ngàn chai rượu Hồng Lâu Mộng? Không, nhà máy rượu không hề làm theo phong trào như thế mà họ tổ chức một nghi thức hiến rượu "Tráng hành tửu” long trọng, nghiêm túc, hùng tráng mang màu sắc cổ tích khác hẳn phong cách bình thường.
Các tướng sĩ thời xưa trước khi ra trận đều phải uống một chút rượu trắng pha máu gà, lấy uy của tráng sĩ để có được niềm tin tất thắng. Nghi thức "tráng hành" rất phù hợp với tâm lý văn hóa dân tộc đương nhiên là thể hiện một cách thích đáng nhất mong ước nóng bỏng của toàn dân Trung Hoa đối với Thế vận hội. Các phóng viên ra sức bấm máy, quay phim cái cảnh rất xúc động này, ngay tối hôm đó đài truyền hình trung ương, đài truyền hình Bắc Kinh đã cho phát ngay bản tin gây xôn xao dư luận ấy, hôm sau hơn 40 tờ báo trong nước đã đăng tin về sự kiện độc đáo đó.
Nhà máy rượu Hồng Lâu Mộng tuy chỉ quyên tặng 500 chai rượu giá chưa đến 1 vạn nhưng từ đó trở đi, nhãn hiệu Tráng hành đã vang khắp nơi, luôn đi cùng với những thành tích nổi trội của Thế vận hội, dường như trong mỗi chiếc huy chương vàng chúng ta đều ngửi thấy mùi rượu Tráng hành, dường như mỗi khi đến phần trao thưởng đều là một cao trào gây xúc động lòng người trong nghi thức Tráng hành.

Tháng 11 năm 1990, trong hội nghị đặt hàng ở Thạch Gia Trang, 3600 vạn bình rượu Tráng hành đều bán hết. Giám đốc nhà máy rượu Hồng Lâu Mộng nói "Đây là lần đầu tiên kể từ khi tôi làm nhà doanh nghiệp đến nay chỉ cần tốn ít tiền nhất mà thu được hiệu quả lớn nhất".

Chương 26

Ban ơn nhỏ được tạ to
Có người nói rằng việc Lý Thế Dân giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh thống nhất đó, một nửa là dựa vào các tướng cũ thời Thái Nguyên khởi binh, nửa kia là nhờ hàng loạt các tướng đầu hàng. Bất luận là đối với loại tướng lĩnh nào, Lý Thế Dân đều thể nghiệm và quan sát kỹ lưỡng, ban ơn để kết nạp, nhờ thế mà tất cả các tướng lĩnh đều nguyện lấy cái chết để báo đền, quả đúng là có thể gọi là "cái ơn nhỏ" đổi được "sự báo đáp lớn". Trong số đó việc của Uất Trì Cung là một thí dụ điển hình.
Uất Trì Cung, tự Kính Đức là một trong những chiến tướng nổi tiếng nhất thời kỳ Tùy Đường. Ông vốn là thuộc hạ của Tống Kim Cương. Tháng 4 năm 620 sau Công nguyên, Tống Kim Cương bại trận phải bỏ chạy để lại Uất Trì Cung giữ cô thành. Lý Thế Dân bèn cử người đi chiêu dụ, các tướng Uất Trì Cung cùng Tầm Tương đem quân lính đầu hàng nhà Đường. Bọn Khuất Đột Thông lo rằng Uất Trì Cung tuy hàng nhưng vẫn có tâm phản phúc nên khuyên Lý Thế Dân mau chóng trừ bỏ đi, nhưng Lý Thế Dân nói: "Ta đang vui mừng vì có được mãnh tướng, các người đừng có nhiều lời".
Tháng 7 năm 620 sau Công nguyên, Lý Thế Dân đem quân tấn công Vương Thế Sung, Uất Trì Cung cũng đi theo. Mỗi tối Lý Thế Dân đều kiểm tra quân sĩ, bỗng một hôm không thấy quân Tầm Tương đã đầu hàng cùng với Uất Trì Cung đâu cả, các quân lính là thuộc hạ của Tống Kim Cương cũng đã bỏ trốn mất hơn nửa. Vì thế mà người trong doanh trại nhà Đường đều xì xầm to nhỏ về Uất Trì Cung. Bọn Khuất Đột Thông, Ân Khai Sơn lại còn trói Uất Trì Cung lại sau đó chạy đến nói với Lý Thế Dân rằng: "Uất Trì Cung kiêu dũng vô song không ai địch nổi, sợ rằng sẽ trở thành hậu hoạ nên cần phải giết sớm. Nay đã nhân cơ hội không phòng bị gì trói lại rồi, xin lệnh để chém đầu . Lý Thế Dân kinh ngạc nói: "Các ngươi thừa biết rằng nếu Uất Trì Cung muốn làm phản thì sao lại chậm hơn so với tướng quân Tầm Tương? Nay Tầm Tương làm phản mà Kính Đức vẫn ở lại đủ thấy Uất Trì Kính Đức không hề có ý làm phản!". Nói rồi vội vàng đến trước mặt Uất Trì Kính Đức, tự tay cởi trói cho ông ta, đồng thời còn dẫn vào phòng ngủ của mình ban cho một chiếc hộp vàng nói: “Đại trượng phu chỉ lấy tình cảm để đối đãi xin đừng để ý đến những chuyện nhỏ đó. Nếu tướng quân muốn đi thì chiếc hộp vàng này có thể coi như lộ phí, gọi là chút lòng của ta. Đương nhiên ta không thể vì những lời gièm pha đó mà hại người ngay cũng không cố ý giữ người không muốn làm bạn với ta".

Uất Trì Cung nghe xong rơi nước mắt bái lạy rằng: "Đại vương đối đãi như vậy thần không biết lấy gì để cám ơn, xin nguyện chết vì người, còn tặng vật thực không dám nhận". Lý Thế Dân đỡ ông ta dậy nói: "Tướng quân quả chịu ở lại thì vàng cũng xin cứ nhận". Uất Trì Cung tiếp tục từ chối, Lý Thế Dân bèn nói: "Hãy nhận trước coi như tặng thưởng lúc sau này có công vậy".
Hôm sau, Lý Thế Dân dẫn theo 500 kỵ binh đi thị sát chiến trường thì đột nhiên gặp phải sự bao vây đánh lén của hơn một vạn kỵ binh của Vương Thế Sung. Đại tướng Đan Hùng Tín của quân Vương cũng là danh tướng nổi tiếng thời Tùy Đường, quen dùng giáo dài, vây chặt Lý Thế Dân. Đúng vào lúc tính mạng của Lý Thế Dân vô cùng nguy cấp thì đột nhiên có viên mãnh tướng phi như bay đến, xông thẳng vào vòng vây cứu Lý Thế Dân ra khỏi một rừng gươm giáo.
Đại tướng cứu mạng lần đó chính là Uất Trì Kính Đức, người mà tất cả đều nghi ngờ, chỉ có Lý Thế Dân là tín nhiệm. Sau khi về trại Lý Thế Dân nói với Kính Đức: "Các tướng đều nghi ngươi sẽ làm phản, ta lại cho rằng ngươi không có ý đó, lẽ nào báo đáp nhanh như vậy sao?". Nói rồi lại ban thưởng hộp vàng hôm qua, lúc này Uất Trì Cung mới chịu nhận.
Sau lần đó, Uất Trì Cung gần như đã trở thành thị vệ bên cạnh Lý Thế Dân, mỗi lần chinh chiến đều không rời nửa bước. Lý Thế Dân rất hay mạo hiểm, luôn thích tổ chức các tướng lĩnh dũng mãnh nhất thành một đội đột kích, xông pha trong trận địa quân địch để đàn áp khí thế quân địch hoặc làm rối loạn thế trận của địch, trong đó luôn luôn không thể thiếu Uất Trì Kính Đức. Uất Trì Kính Đức cũng rất lấy làm vinh dự được ở trung đội quân mạo hiểm đó, cảm tạ sự tín nhiệm của Lý Thế Dân, càng trung thành với Lý Thế Dân hơn, lâm trận càng dũng mãnh hơn.
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Quốc, mâu thuẫn trong nội bộ hoàng cung bắt đầu trở nên gay gắt. Anh trai của Lý Thế Dân tức thái tử Lý Kiến Thành sợ Lý Thế Dân có công lớn lại có nhiều chiến tướng dũng mãnh như vậy sẽ tranh mất ngôi vị thái tử nên đã hợp sức với em trai là Lý Nguyên Cát để ám sát Lý Thế Dân. Nhưng bọn họ cũng rất sợ các chiến tướng và hộ vệ của Lý Thế Dân nhất là một người võ công cao cường lại không rời Lý Thế Dân một bước như Uất Trì Kính Đức. Lý Kiến Thành thừa hiểu rằng muốn sát hại được Lý Thế Dân thì trước hết phải trừ bỏ được Uất Trì Cung. Một hôm ông ta sai người đến tặng cho Uất Trì Cung rất nhiều báu vật, Uất Trì Cung kiên quyết từ chối không nhận: "Kính Đức xuất thân nghèo hèn, sớm rơi vào đường nghịch đạo, may mà được Tấn Vương cất nhắc mới có ngày hôm nay. Nay muốn báo ơn tri ngộ của Tấn Vương mà chưa có cơ hội, nếu lại nhận lễ của thái tử thì tôi càng không thể báo đáp lại..."

Lý Kiến Thành thấy Uất Trì Kính Đức một lòng chỉ muốn báo ơn Tấn Vương, nhẹ không ưa mà nặng cũng không ưa đành mượn tiếng là đi dẹp Đột Quyết ở phía bắc để điều Uất Trì Kính Đức đi làm tiên phong, do Lý Nguyên Cát dẫn đầu rời khỏi Trường An, đồng thời trước khi đại quân chuẩn bị xuất phát, nhân lúc Lý Thế Dân không có Uất Trì Cung ở bên cạnh để bất ngờ hành thích.
Uất Trì Kính Đức liền cùng với các mưu thần khác thúc Lý Thế Dân ra tay trước, phát động cuộc chính biến Huyền Võ Môn. Uất Trì Kính Đức giúp Lý Thế Dân giết chết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát, tự tay chặt thủ cấp của chúng, giả thánh chỉ để quát lui đội quân mà bọn Lý Kiến Thành đã bố trí, sau đó liều mình cầm giáo xông thẳng đến trước mặt Lý Uyên, buộc Lý Uyên phải lập Lý Thế Dân làm thái tử.
Dưới sự trợ giúp của hội Uất Trì Kính Đức cuối cùng Lý Thế Dân cũng lên ngôi thái tử một cách thuận lợi và không lâu sau kế ngôi vua.
Lý Thế Dân giành được ngôi vua nhờ ban chút ơn. Công ty Đông Cảng cũng đã đặt ra "học bổng Đông Cảng" nên đã nhận được rất nhiều sự báo đáp của sinh viên các trường đại học hàng đầu. Cả hai người trong việc tài tình dùng kế "ăn mận trả đào” sao mà giống nhau thế!
Công ty Đông Cảng - Triết Giang vốn là một doanh nghiệp ở tỉnh lẻ chả được mấy người biết đến. Tháng 3 năm 1992, nhà doanh nghiệp nông dân trẻ, giám đốc công ty Đông Cảng Vương Vân Hữu bỗng nảy ra một ý tưởng kỳ lạ, mạnh dạn đưa ra ý tưởng thiết lập "học bổng Đông Cảng trước tiên là ở các trường nổi tiếng như đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa, đại học khoa học kỹ thuật Trung Quốc, đại học Triết Giang và đại học Nam Khái, mỗi suất học bổng cho một nghiên cứu sinh học thi tiến sĩ ngành vật lý là 100 nhân dân tệ, định kỳ 3 năm. Hành động này đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của 5 trường đại học đó. Đồng thời danh sách 290 nghiên cứu sinh được nhận học bổng đợt đầu đã được gởi ngay đến Đông Cảng.
Để hỗ trợ cho đợt nghiên cứu sinh này mỗi năm Đông Cảng phải bỏ ra 34,8 vạn, 3 năm tổng cộng là 104,4 vạn nhân dân tệ. Lúc đó lợi nhuận hàng năm của công ty Đông Cảng chỉ có 250 vạn, không ít người cho rằng việc công ty tự mình mang gánh nặng vào thân. Vương Vân Hữu lại nói số tiền đó chẳng qua chỉ như giọt nước ở biển đối với Đông Cảng to lớn sau này mà thôi.
Quả nhiên là hành động tiên phong đó của Đông Cảng đã ngay lập tức tạo ra một phản ứng dây chuyền. Mấy chục hãng thông tấn ở Bắc Kinh, Triết Giang, Thượng Hải liên tiếp cho đăng những bài báo tỉ mỉ ở những vị trí thu hút người xem nhất, có đài truyền hình còn làm hẳn một tiết mục chuyên đề, các ấn phẩm từ các vùng trong cả nước liên tiếp gửi về Đông Cảng, trong số đó đa phần là từ những nhân viên khoa học kỹ thuật. Họ nói rằng có nhà doanh nghiệp địa phương như Vương Vân Hữu thì những nhân viên kỹ thuật như họ chẳng còn lo sợ không có đất dụng võ nữa.

Một Đông Cảng bình thường nay đã trở thành biểu tượng của sự tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài trong giới khoa học. Cái cây ngô đồng khác thường Đông Cảng này đã thu hút được hết đợt "phượng hoàng vàng" này lại đến đợt khác. 5 trường đại học đó hàng năm đều tổ chức một đợt khảo sát đến Đông Cảng cho các nghiên cứu sinh, đồng thời giúp doanh nghiệp giải quyết những khó khăn trong vấn đề kỹ thuật. Một nghiên cứu sinh của trường đại học Nam Khai đã giúp Đông Cảng hoàn thành việc cải tiến công nghệ của sản phẩm cũ, giá thành nguyên liệu giảm xuống 30%, mỗi năm tăng thu được 200 vạn. Chỉ trong năm 1992, Đông Cảng đã đưa ra được 8 sản phẩm mới, lợi nhuận trong năm đạt hơn 1000 vạn, tăng 4 lần so với năm 1991 .
Điều đáng quý hơn cả là trong số hàng chục vạn doanh nghiệp địa phương của cả nước công ty Đông Cảng đã nổi bật hơn cả, có một bao bì văn hoá độc đáo và trở thành "thánh địa" mà các nhân viên khoa học kỹ thuật đều muốn hướng về.
Nếu so sánh điều đó với số tiền "học bổng” há chẳng phải là “một giọt nước" trong một "con suối" sao?

Chương 27

Nắm bắt tâm lý phãn nghịch, chi phối sự tiến thoái của đối thủ
Một hôm, có một con rùa bị một con cáo bắt. Con rùa cố thu đầu và 4 chân vào trong cái mai rùa vừa cứng vừa chắc nên cáo không làm thế nào để giết được rùa. Cáo không ăn được thịt rùa thì rất sốt ruột, nói một cách hung ác với rùa rằng: “Tao phải thiêu mày trong lửa mới được". Rùa đáp rằng: "Cám ơn, vừa may ta đang lạnh ngươi có thể giúp ta sưởi ấm thì tốt quá”. Con cáo lập tức nhả con rùa đang ngậm trong mồm xuống đất rồi nói: "Tao phải ném mày xuống nước!". Rùa "hoảng sợ" cầu xin: "Anh cáo ơi xin hãy tha chết cho tôi! Nếu anh ném tôi xuống nước thì tôi sẽ chết đuối mất!". Cáo lập tức đắc ý, tha rùa đến bên hồ, ném xuống nước, rùa từ từ nhô đầu và chân ra, nhởn nhơ bơi ra chỗ sâu.
Lý Thế Dân đương nhiên không phải là rùa nhưng ông rất giỏi trong việc dùng mưu kế của rùa.
Lúc đó Đột Quyết thường dựa vào lực lượng kỵ binh hùng mạnh của mình thường xuyên xuất hiện ở đất của nhà Đường. Đường Cao Tổ Lý Uyên nghĩ đến việc trong nước chưa yên nên không tiến đánh lại, thường xuyên viết thư tặng quà kết giao hòa hiếu với họ nhưng Đột Quyết vẫn có ý phản phúc, lòng tham không đáy vẫn lúc ẩn lúc hiện bất thường như cũ. Lý Uyên bất lực, thậm chí còn muốn thiêu hủy kinh thành Trường An để tránh khỏi sự xâm nhiễu của Đột Quyết. Nhưng trước khi thực thi cái kế bất đắc dĩ đó thì ông vẫn muốn để Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát... đi nghênh chiến một trận.
Năm Đường Võ thứ 7 (năm 642 sau Công nguyên) Đột Quyết tổ chức đánh lớn, cánh quân tiên phong đã áp sát Mân Châu (Huyện Bân, Thiểm Tây ngày nay). Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát tiến lên phía trước để nghênh chiến.

Quân Đường sắp đến Mân Châu thì có tin báo quân Đột Quyết đã dựng trại suốt hơn trăm dặm, thanh thế rất lẫy lừng. Lý Nguyên Cát đã có ý sợ hãi, Lý Thế Dân thì lại rất bình tĩnh sai thám quân đi điều tra kỹ hơn tình hình quân địch. Thám quân về báo lại rằng: "Hai Khả hãn của Đột Quyết là Hiệt Lợi và Đột Lợi đã dốc hết toàn lực, số binh sĩ không dưới hàng chục vạn". Lý Thế Dân ung dung nói: "Cả hai tướng lĩnh đều cùng đến thì dễ tìm ra cách phá địch thôi”.
Quân Đường tiếp tục tiến lên phía trước, thẳng đến Mân Châu, đóng quân sát thành. Lúc này ở Quan Trung trời mưa liên tục, việc chuyển lương không đều, binh sĩ đã đi bộ suốt một chặng đường dài mệt mỏi đến không thể chịu đựng được nữa. Ở trong thành Trường An cũng rất lo cho quân đội xuất chinh. Lý Thế Dân thì chẳng tỏ thái độ gì, thản nhiên như thường, sắp đặt đâu ra đấy.
Hôm sau, Hiệt Lợi Khả hãn dẫn theo hơn 1 vạn kỵ binh tinh nhuệ, xông vào phía tây thành, bày binh bố trận ở sườn núi Ngũ Lũng, ngẩng cao đầu chờ đánh. Lý Thế Dân nói với em trai: "Khí thế quân Đột Quyết mạnh nên chúng ta không thể tỏ ra yếu đuối được. Nếu em sợ đánh thì chúng sẽ lập tức tiến công, nếu em không sợ đánh thì chúng lại phải lui binh. Vì thế chúng ta phải ra trận, tỏ ra là chắc chắn sẽ đánh, thế em có đi cùng không?".
Lý Nguyên Cát vô cùng sợ hãi nói: "Quân địch mạnh như vậy thì không thể tỏ ra khinh thường mà chống lại chúng...". Lý Thế Dân lại nói: "Hai Khả hãn Hiệt Lợi và Đột Lợi tuy là chỗ chú cháu với nhau nhưng thực tế thì vẫn luôn ngờ vực nhau. Cái ngôi vị Khả hãn của Hiệt Lợi vốn là của cháu ông ta Đột Lợi. Hiệt Lợi sợ Đột Lợi sẽ gây chuyện nên mới lệnh cho Đột Lợi trấn thủ ở phía đông và trao cho cái hư danh Khả hãn. Nay hai bọn họ liên binh đến thì ta có thể khơi gợi cái mối hiềm nghi lớn như vậy giữa họ. Người khác sợ chứ ta thì không sợ".
Lý Thế Dân nói xong lập tức dẫn đầu hơn một trăm kỵ binh xông thẳng đến trước trận địa của Hiệt Lợi lớn tiếng nói: “Triều đình ta vốn kết giao hòa hiếu với Khả hãn nay sao lại quay lưng với hòa ước đó, xâm nhập vào lãnh thổ của ta? Ta là Tấn Vương Lý Thế Dân, nếu Khả hãn có khả năng ra trận thì hãy mau xuất chiến, quân của ngươi đông còn của ta ít nhưng ta không hề sợ, thuộc hạ của ta chi có 100 kỵ binh nhưng cũng có thể chém cả vạn quân của ngươi”. Hiệt Lợi nghe thấy những lời đó chỉ cho rằng Lý Thế Dân đang dùng kế dụ địch, quân Đường đã chuẩn bị xong cho việc tất thắng, nên chỉ cười mà không đáp lại.
Thấy tình cảnh đó, Khả hãn Đột Lợi nghi ngờ rằng Lý Thế Dân có ý gian, càng nghi rằng Hiệt Lợi Khả hãn có dụng tâm gì khác. Lý Thế Dân thấy Đột Lợi có một đội quân riêng đứng cách Hiệt Lợi một cái mương nên cố ý phái một kỵ tướng đến chỗ Đột Lợi lớn tiếng hét rằng: "Trước đây người là đồng minh của ta, đã hẹn ước rằng sẽ cứu trợ nhau, nay sao lại dẫn quân đến đánh?"
Đột Lợi cho rằng Hiệt Lợi đã có mật ước gì với nhà Đường định mưu sát mình và tên kỵ binh đó đã nhầm mình với Hiệt Lợi Khả hãn vì thế mới nói ra bí mật trước mặt mọi người. Xem ra Lý Thế Dân chỉ đem theo trăm quân đến có thể là để giúp Hiệt Lợi đối phó với mình. Đột Lợi vẫn còn nghi ngờ như vậy nên cũng im lặng không đáp lại câu nào.

Mà dưới con mắt của Hiệt Lợi Khả hãn, Đột Lợi chẳng nói năng gì thì hiển nhiên là đã thừa nhận trước đó quả là có mật ước với nhà Đường. Vì thế đối thủ của mình không chỉ là trăm quân của Lý Thế Dân ở trước mặt mà còn cả một đại quân giấu mặt là quân của Đột Lợi. Đương nhiên là để đánh bại được mình thì nhà Đường đã sắp đặt tất cả từ lâu.
Lý Thế Dân thấy hai Khả hãn không dám tùy tiện tiến binh nên đã cố tình vung roi thúc ngựa định tấn công sang bên đó Hiệt Lợi Khả hãn vô cùng hoang mang phái người sang đó cầu xin nghị hòa. Đúng lúc đó thì trời mưa to thế là cả hai bên thu binh quay về .
Lý Thế Dân lại nói với các tướng sĩ: "Thực lực của Đột Quyết là ở việc dùng cung tên mà nay trời lại mưa liên tục như vậy thì tên cũng chẳng ích gì, quân Đột Quyết mất tên như chim đang bay mà gãy cánh nên càng không dám tiến công. Chúng ta nên nhân cơ hội này lại đi đòi đánh thì quân Đột Quyết tất sẽ phải bỏ chạy thật xa". Thế là lệnh cho các quân sĩ ăn một bữa thật no, đội mưa đi tấn công. Đồng thời cũng phái một người giỏi về ăn nói đến tìm Khả hãn Đột Lợi để nói rõ cái lợi và cái hại, Đột Lợi vui vẻ đồng ý hòa hảo với nhà Đường. Hiệt Lợi không rõ đầu đuôi ra sao thấy quân Đường đến một cách bất ngờ thì vội cho gọi Đột Lợi đến thương lượng. Đột Lợi nói "Xét từ mọi góc độ thì quân Đường đã quyết một trận tử chiến với chúng ta. Tấn Vương đã đem quân đến một cách có kế hoạch và chưa từng bại trận. Chúng ta chưa thể thắng được ông ta trong thời tiết như thế này thì giảng hòa với ông ta là thượng sách".
Thế là Khả hãn Hiệt Lợi lại đến cầu hòa tiếp. Đội Lợi Khả hãn lại còn kết nghĩa "anh em" với Lý Thế Dân. Thế là cả đại quân của Đột Quyết đi để kết thành đồng minh, đồng thời phái đại thần đến triều kiến Cao Tổ.
Nếu quân Đường vì sợ hãi mà lui quân thì quân Đột Quyết chắc chắn sẽ thừa thế truy sát. Lý Thế Dân giả vờ tỏ ra như là đã chuẩn bị sẵn sàng để quyết một trận tử chiến thì quân Đột Quyết lại không dám tiến công nữa. Đây chẳng phải là kế mà rùa đã giỡn cáo sao? Đương nhiên là Lý Thế Dân cao minh hơn con rùa đó, khi vận dụng kế này cũng đã cố gắng dùng cả cách làm phân hóa, tan rã. Trên thương trường cũng có những “con rùa" cao minh như vậy, ví dụ như giám đốc công ty DG - Sơn Bản Thôn.
Có một lần công ty của ông đứng trước nguy cơ phá sản, cần phải nhanh chóng bán hết toàn bộ số hàng của công ty. Ông đành phải bay sang Mỹ để nhanh chóng đàm phán với một công ty nào đó về số sản phẩm của công ty mình. Không ngờ phía Mỹ đã thăm dò được nội tình của công ty DG nên ra sức ép giá. Ông chỉ có hai cách để lựa chọn: không bán để mặc cho công ty rơi vào tình cảnh không có lối thoát vì không quay vòng vốn được, hoặc là bán với giá thấp, chịu nỗi khổ của việc nguyên khí bị trọng thương thậm chí đến mức không gượng dậy được.

Trong lòng rất đau khổ nhưng bề ngoài ông vẫn chuyện trò vui vẻ. Dường như ông không cần phải suy nghĩ gì nhiều đối với các yêu cầu của đại diện phía Mỹ mà cứ nói với thư ký hết lần này đến lần khác: "Cô đi xem vé máy bay đi Nam Triều Tiên đã chuẩn bị xong chưa. Nếu đã có vé thì ngày mai chúng ta đi, việc làm ăn ở bên đó không thể hoãn lại thêm một phút nào nữa".
Đại diện phía Mỹ rất tin tưởng vào phán đoán của mình: Sơn Bản Thôn không hứng thú lắm với vụ làm ăn này, thành hay không đối với ông ta không quan trọng. Rất có khả năng ông ta sẽ đột ngột rời Mỹ bay sang Nam Triều Tiên.
Đại diện phía Mỹ vội vàng nói dây điện thoại trực tiếp báo cáo với giám đốc xem nên làm thế nào. Giám đốc lập tức hạ lệnh: "Nhanh chóng làm xong vụ này theo giá thông thường” .
Sơn Bản Thôn không đến Nam Triều Tiên mà được "cáo" là đại diện của Mỹ "cắp" miễn phí về Nhật, công ty của ông lập tức chấn hưng trở lại từ bờ vực của sự phá sản.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét