Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Mưu Trí Thời Tùy Đường 35 - Hết 10

Trang 10 trong tổng số 11

Chương 62

Lấy nhu thắng cương
Khi phải đối phó với kẻ địch đương nhiên chúng ta hy vọng có thể giết sạch ngay lập tức. Nhưng nếu kẻ địch rất mạnh thì sao? Lấy cứng để đối cứng thì khác gì lấy trứng chọi đá. Nếu người mà chúng ta phải đối phó không phải là kẻ địch mà lại là bạn bè, quân đội bạn hoặc khách hàng mà chúng ta phải duy trì quan hệ hữu hảo lâu dài thì sao? Thế thì càng không thể dùng những biện pháp cứng rắn. Vậy thì làm thế nào? Tục ngữ có câu: Nước chảy đá mòn, trúc mềm có thể địch được cường phong, trong những trường hợp không thể dùng những thủ pháp cứng rắn thì đã có kế "Dĩ nhu khắc cương” .
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Năm 764 sau Công nguyên, nhà Đường vừa dẹp yên dược loạn An - Sử thì Phó Cố Hoài ân lại tập hợp quần chúng ở phía bắc làm phản, nhiều lần công thành đoạt dã. Đường Đại Tông đành phải lệnh cho Quách Tử Nghi - một người tiếng tăm lừng lẫy làm phó nguyên soái dẫn quân đi dẹp loạn. Quách Tử Nghi lại lệnh cho con trai là Quách Hi với tư cách là Thượng thư Kiểm Hiệu kiêm Hành Doanh Tiết độ sứ đóng quân ở Mân Châu (huyện Bân, Thiểm Tây ngày nay).
Một số thanh niên phạm pháp ở vùng Mân Châu đã mượn danh Quách Hi, sau đó lấy danh nghĩa quân nhân để hành động ngang ngược, phạm pháp ở những nơi đông người ngay vào ban ngày, nếu có người nào không đáp ứng yêu cầu của chúng là lập tức bị đánh đập dã man, thậm chí còn ra tay giết cả người già, trẻ em, phụ nữ đang mang thai. Tiết độ sứ Mân Châu là Bạch Hiếu Đức vì sợ uy danh của Quách Tử Nghi nên không dám động chạm gì đến những việc đó. Thuộc hạ của Bạch Hiếu Đức là thứ sử Kinh Châu Đoàn Tú Thực thấy rằng việc này có liên quan đến sự an nguy của nhà Đường và danh tiết Quách Tử Nghi nên đã mạnh dạn yêu cầu xử lý việc này. Bạch Hiếu Đức lập tức hạ lệnh cho Đoàn Tú Thực thay mặt quan chấp pháp trong quân đội lo liệu toàn bộ.
Không lâu sau khi Đoàn Tú Thực nhận lệnh, 7 tên lính trong quân đội của Quách Hi đến chợ cướp rượu, giết chết những công nhân nấu rượu, phá hỏng các đồ đựng để nấu rượu. Đoàn Tú Thực đã bố trí quân lính bắt tất cả bọn chúng lại, chặt đầu bêu trên ngọn giáo, dựng ở chợ để mọi người xem.

Bọn binh lính trong doanh trại Quách Hi đều rất hỗn loạn về chuyện này, tất cả đều khoác lên người giáp trụ. Đoàn Tú Thực thì lại vứt bỏ cây đao đeo bên mình, cho một ông lão chậm chạp dắt ngựa, đi thẳng đến cửa doanh trại của Quách Hi. Tất cả những binh lính đội mũ và mặc áo giáp sắt đều ra ngoài. Đoàn Tú Thực vừa đi vừa cười nói rằng: "Giết một tên lính già thì cần gì phải vũ trang cẩn thận như đón một đại quân của địch vậy? Ta mang một cái đầu lâu tới để đích thân Quách thượng thư ra lấy!". Binh sĩ mặc giáp nhìn thấy một ông già, một tướng với một con ngựa gầy thì rất đỗi ngạc nhiên. Bởi vì chúng vốn nghĩ rằng sắp xảy ra một cuộc quyết chiến vậy mà chỉ nhìn thấy một đối thủ nho nhã yếu ớt như vậy nên vội vàng nhường đường.
Đoàn Tú Thực gặp được Quách Hi liền nói: "Công lao của phó nguyên soái Quách Tử Nghi trải đầy trong thiên hạ, người làm con trai của ông ấy mà để cho quân lính tùy tiện hoành hành ngang ngược. Nếu làm cho biên giới của nhà Đường rối loạn thì tội này thuộc về ai đây? Tội gây rối chắc chắn sẽ làm liên lụy đến Quách phó nguyên soái. Mà nay những thanh niên phạm pháp đó lại mượn danh trong quân đội của người làm những chuyện bất hợp pháp, giết hại người vô tội. Người ta nói rằng, Quách thượng thư dựa vào thế lực của phó nguyên soái không quản thúc binh sĩ của mình, nếu cứ kéo dài như vậy thì công danh của Quách gia còn tồn tại được bao lâu?".
Quách Hi vốn không hài lòng với việc Đoàn Tú Thực bắt giết binh sĩ của mình nên cũng cảm thấy phẫn nộ như binh sĩ, cũng muốn xem xem Đoàn Tú Thực tài cán lớn đến cỡ nào. Nay lại thấy Đoàn Tú Thực xông thẳng vào doanh trại mà hoàn toàn chẳng có chút phòng bị gì, lại nghe Đoàn Tú Thực nói và thấy ông ta làm như vậy hoàn toàn là vì muốn thúc đẩy công danh của Quách gia. Vì vậy đã thay đổi thái độ cứng rắn lúc đầu lại còn cảm thấy phải bảo vệ một Đoàn Tú Thực nhỏ yếu để tránh việc thuộc hạ của mình vì tức giận mà ra tay giết nên vội vàng bái Đoàn Tú Thực "May mà có sự chỉ giáo của người". Thế là vội vàng hạ lệnh cho thủ hạ cởi bỏ vũ trang, không cho phép làm tổn thương đến Đoàn Tú Thực.

Đoàn Tú Thực vì muốn Quách Hi quyết tâm quản thúc quân đội nên dứt khoát "mềm" đến cùng nói "Tôi vẫn chưa ăn tối, bụng đói rồi. Xin hãy chuẩn bị cơm cho tôi". Sau khi ăn xong lại nói: "Bệnh cũ của tôi lại tái phát cần phải nghỉ ở chỗ ngài một đêm". Cứ thế, chỉ với một ông già canh giữ, Đoàn Tú Thực đã ngủ trong một doanh trại đầy lòng thù địch.
Quách Hi bề ngoài thì đáp ứng các yêu cầu của Đoàn Tú Thực nhưng vẫn sợ binh sĩ vì phẫn nộ mà giết mất một mệnh quan triều đình chẳng có chút đề phòng gì mà lại là người mình phải chịu ơn nên trong lòng rất lo lắng. Thế là một mặt nói rõ kỷ luật quân đội nghiêm khắc, một mặt bảo lính tuần tra phải cảnh giới phòng bị nghiêm ngặt suốt đêm để đảm bảo cho Đoàn Tú Thực.
Hôm sau, Quách Hi còn cùng với Đoàn Tú Thực đến chỗ Bạch Hiếu Đức để tạ tội, đại quân Mân Châu vì thế mà được chỉnh đốn lại.
“Thiên hạ chi chí nhu, trì sánh thiên hạ chí cương (Cái mềm nhất của thiên hạ có thể buộc được thứ cứng nhất trên đời). Đoàn Tú Thực sau khi giết 7 binh sĩ phạm pháp đã dùng những lời nói và việc làm ôn hòa, đúng mức, điều khiển được Quách Hi và thuộc hạ đang rất phẫn nộ, ông đã thành công trong việc "Dĩ nhu khắc cương".
Trong ngoại giao quân sự, khi sử dụng kế "Dĩ nhu khắc cương” luôn đòi hỏi phải có lòng can đảm và trí hiểu biết hơn người, phải có khí phách, không sợ hiểm nguy. Trong kinh doanh thương mại vốn là dĩ hòa vi quý, khi dùng kế "Dĩ nhu khắc cương" càng đòi hỏi phải nắm được chuẩn xác tâm lý, nguyện vọng của đối thủ cứng rắn đó, phải đứng từ góc độ đáp ứng tâm lý nguyện vọng của đối thủ để kích thích cái nhu của họ.

Tổng giám đốc công ty vận tải Bauren, ông Falkland khi còn trẻ vì đã xử lý được một thương vụ của công ty mà được lên thẳng mây xanh. Lúc đó ông là nhân viên bình thường của một xưởng sản xuất đầu máy. Nhờ kiến nghị của ông, công ty đã mua mảnh đất chuẩn bị xây một tòa nhà làm việc lớn. Hơn 100 hộ dân cư ở trên mảnh đất đó vì thế phải chuyển đi nơi khác.
Nhưng trong số các cư dân có một bà lão Ailen nhảy ra đối đầu với xưởng sản xuất đầu máy. Dưới sự cầm đầu của bà ta, nhiều người đã từ chối dọn đi và còn tụ tập lại thành một đám đông quyết đấu đến cùng.
Falkland đã nói với lãnh đạo xưởng: "Nếu chúng ta giải quyết vụ việc này thông qua con đường pháp luật thì vừa tốn tiền lại mất thời gian. Chúng ta lại càng không thể sử dụng những biện pháp cứng rắn khác để xua đuổi họ. Như thế thì chúng ta càng có thêm nhiều kẻ thù, tuy là có thể xây được nhà nhưng chúng ta cũng không đảm bảo được an ninh. Vậy hãy giao cho tôi xử lý!".
Đứng trước tình thế đó thì tốt nhất là dùng kế sách "Dĩ nhu khắc cương". Cái cách mà một người thông minh như Falkland đã chọn.
Hôm đó, ông đến trước cửa nhà bà lão người Ailen, nhìn thấy bà đang ngồi trên bậc đá. Ông cố tình đi đi lại lại trước mặt bà, ra vẻ như trong lòng đang tính toán một việc gì đó. Ông đã tự nhiên gây sự chú ý của bà lão. Một lúc sau, bà lão mở miệng hỏi: "Này chàng thanh niên, có điều gì phiền não thế? Hãy nói ra, ta nhất định sẽ có cách giúp anh".
Falklank nhân cơ hội đó tiến lên phía trước nhưng không trực tiếp trả lời câu hỏi của bà mà nói "Bà chẳng có việc gì làm ở đây, thật là lãng phí quá! Tôi biết bà rất có năng lực lãnh đạo, quả thực bà nên tranh thủ thời gian để làm một người có sự nghiệp lớn. Nghe nói ở đây sắp xây một tòa nhà lớn, có phải bà định phát huy tài năng chỉ huy hơn người của mình làm một việc mà ngay cả quan tòa, tổng thống cũng khó làm được là khuyên hàng xóm của bà để họ tìm được một nơi yên vui có thể ở lâu dài. Như vậy thì nhất định là mọi người sẽ nhớ đến lòng tốt của bà".
Bắt đầu từ hôm sau, bà lão người Ailen cứng rắn, ngoan cố đó đã trở thành một phụ nữ bận rộn nhất thành phố. Bà đi khắp nơi để tìm nhà, chỉ huy hàng xóm của mình chuyển đi, đồng thời còn làm rất cẩn thận, đáng tin cậy.
Tòa nhà làm việc đó đã nhanh chóng bắt đầu khởi công. Trong quá trình các hộ chuyển đi không chỉ tốc độ nhanh hơn rất nhiều mà số tiền phải trả lại chỉ bằng một nửa so với dự định của xưởng.
Có thể thấy việc Falkland quyết đoán trong việc chọn dùng kế "Dĩ nhu khắc cương", đã chứng tỏ ông là người có trí lực phi phàm. Ông lại có thể tóm được cái lời "nhu” đột phá của bà lão dẫn đầu những người hàng xóm chống lại việc chuyển nhà đang ngồi trên bậc thềm đó thì càng chứng tỏ kỹ nghệ thành thạo trong việc dùng kế này của ông.

Chương 63

Dùng khổ nhục kế để tạo lòng tin
“Nhân bất tự hại, thụ hại tất chân" cũng có nghĩa là người ta thường không bao giờ tự hại chính mình, chẳng may bị hại thì cũng không phải do tự nguyện mà là do sức mạnh bên ngoài áp đặt. Trong "36 kế sách" có kế "Khổ nhục kế” là thông qua việc tự mình hại mình, tự mình trải qua những lúc hiểm nguy để lấy được lòng tin của địch. Vì tự mình hại mình rất dễ lấy được lòng tin của đối phương, nó mang một tác dụng mê hoặc, lừa dối rất lớn nên đó là một kế hay tuyệt diệu có thể che giấu được mưu đồ của mình, làm cho đối phương có những ý nghĩ và hành vi sai lầm. Khổ nhục kế của Chu Du đánh Hoàng Cái thời Tam quốc có thể lừa được một người đa nghi như Tào Tháo, trong nháy mắt làm tan vỡ đại quân mấy chục vạn người của Tào Tháo. Hàng trăm năm sau, danh tướng đời Đường Quách Tử Nghi lại dùng kế này dễ dàng biến hàng chục vạn quân địch thành quân đội bạn, xóa bỏ một tai họa ngập đầu của triều Đường.
Trong quá trình nhà Đường tập trung lực lượng dọn loạn An - Sử, vì phải điều động một lượng lớn binh sĩ từ phía tây bắc sang phía đông nên quân Thổ Phồn đã thừa cơ từng bước xâm nhập chiếm lĩnh Hà Tây và Lũng Hữu. Năm Quảng Đức nguyên niên đời Đường Đại Tông (năm 763 sau Công nguyên), sau khi trải qua mấy năm chiến loạn, vương triều Đường sức cùng lực kiệt tiếp nhận sự đầu hàng của quân An - Sử cũng đã sức cùng lực kiệt. Lúc đó nhà Đường cho rằng đã thắng lợi nên chỉ lo các tướng soái có công lớn trong việc dẹp loạn sẽ lấn át chủ. Đường Đại Tông có lần tự mình nói với con gái, cũng là con dâu của Quách Tử Nghi - Thăng Bình công chúa rằng: “Quách Tử Nghi không chịu làm thiên tử thì mới chưa làm hoàng đế, nếu ông ta mà muốn đoạt lấy thiên hạ thì chắc chắn thiên hạ sẽ không còn là của nhà ta nữa". Để phòng ngừa việc hoàng quyền rơi vào tay kẻ khác, Đường Đại Tông (bao gồm cả các đời vua nhà Đường sau này) càng ngày càng tăng mối hiềm nghi đối với các tướng soái chính. Chiến tranh dẹp loạn vừa kết thúc thì Quách Tử Nghi cũng bị tước bỏ mất quân quyền; Lý Quang Bật không dám vào triều, lo buồn mà chết, vị phó nguyên soái cuối cùng Phó Cố Hoài ân cũng suốt ngày lo buồn, đành phải lo bảo tồn dư bộ.

Đúng vào lúc nhà Đường cho rằng thiên hạ thái bình thì Thổ Phồn đã dẫn theo hơn 20 vạn quân rầm rộ Đông tiến vào tháng 7 cùng năm mà quân An - Sử đầu hàng, chỉ trong 3 tháng đã đánh đuổi được Đường Đại Tông, chiếm cứ Trường An, ngang ngược cướp sạch. Một người thẳng thắn vô tư, trung tâm ái quốc như Quách Tử Nghi thấy thế vội vàng dũng cảm đứng ra dùng uy thế quân đội và sự mưu trí của mình để lấy ít thắng nhiều, đánh lui được quân Thổ Phồn. Đường Đại Tông trở về Trường An, tuy biết rằng Quách Tử Nghi lại có công nhưng mối hiềm nghi với các tướng soái chỉ tăng lên chứ không giảm đi. Quách Tử Nghi lại bị bỏ không, không dùng đến. Phó Cố Hoài ân vì sợ mà làm phản, nhà Đường lại phải đối diện với nguy cơ lớn hơn.
Bắt đầu từ năm 764 sau Công nguyên, Phó Cố Hoài ân công khai phản lại nhà Đường, nhiều lần tấn công quan quân, làm nhà Đường ăn không ngon ngủ không yên. Năm 765 sau Công nguyên, Phó Cố Hoài ân lại tập hợp quân Thổ Phồn, Hồi Ca được hơn 60 vạn binh mã tiến hành Nam Hạ. Đường Đại Tông vô cùng kinh sợ, lại đành phải dùng Quách Tử Nghi, lệnh cho ông dẫn đầu vạn binh mã tiến về Kinh Dương (phía Tây bắc Kinh Dương - Thiểm Tây ngày nay) để ngăn chặn.
Trong thời gian hai quân đánh nhau, Phó Cố Hoài ân bất ngờ bệnh nặng chết, Thổ Phồn và Hồi Ca vẫn tiếp tục uy hiếp Kinh Dương.
Quách Tử Nghi lệnh cho tướng Lý Quang Toán đến doanh trại của Hồi Ca. Quân Hồi Ca đã từng nhận lời mời của Phó Cố Hoài ân giúp đỡ quân Đường đứng đầu là Quách Tử Nghi thu lại được hai kinh nên rất tôn sùng Quách Tử Nghi, đồng thời cũng đã có hiệp ước đồng minh với nhà Đường. Lý Quang Toán trách Hồi Ca đã bội ước, thất tín. Sau đó nói, giờ đây Phó Cố Hoài ân đã bị trời tru, Quách lệnh công Quách Tử Nghi đóng quân ở đây, nếu tự nguyện nối lại tình hữu nghị lúc trước thì xin hãy cùng tấn công Thổ Phồn, còn nếu đã quyết bội ước thì xin hãy định ngày quyết chiến.
Đô đốc Hồi Ca là Dược Cát La nghe xong kinh sợ hỏi rằng: “Quách lệnh công đến đây rồi? Có thể gặp một lần được không! E rằng ngươi đến để lừa ta!".
Lý Quang Toán đáp: "Chính Quách lệnh công đã phái tôi đến đây thì sao lại nói là Quách Tử Nghi không ở đây?".
Dược Cát La nói. "Lệnh công quả là ở đây thì xin mời đến gặp mặt".

Lý Quang Toán quay về báo với Quách Tử Nghi. Quách Tử Nghi nghĩ địch thì đông mà ta thì ít, khó mà thắng được. Nếu nhà Đường làm cho Hồi Ca tin rằng sẽ vẫn tín nhiệm họ như trước thì có khả năng khiến cho họ chọn biện pháp ký hòa ước để giải quyết quan hệ giữa Đường - Hồi. Mà hiện nay tương quan lực lượng giữa hai bên nghiêng về phía Hồi Ca, nếu để xảy ra binh đao thì chỉ cần không cẩn thận một chút thôi cũng có thể khiến cho mình và Đại Đường gặp phải một tai họa lớn. Làm thế nào mới có thể khiến Hồi Ca tin vào sự tín nhiệm nhà Đường và quân Đường đối với họ đây? Quách Tử Nghi suy nghĩ lại, quyết định dùng kế "Khổ nhục thị tín".
Quách Tử Nghi quyết định tự mình đến doanh trại Hồi Ca.
Đây quả là một việc mạo hiểm nên các tướng đều khuyên không nên đi. Nhưng Quách Tử Nghi nói với họ rằng: "Nếu ta không đi thì ngang với việc Lý Quang Toán đã lừa Hồi Ca. Quân Hồi Ca tức giận tấn công thì quân ta thế cô lực yếu tất sẽ không có đường sống. Nay ta đứng ra đối mặt với sự lợi hại thì mới có khả năng không đánh mà thắng".
Các tướng chẳng còn cách nào khác nhưng nhất trí yêu cầu chọn 500 kỵ binh tinh nhuệ đi theo để đề phòng chuyện bất trắc. Quách Tử Nghi kiên quyết không đồng ý: "Ta một mình một ngựa ung dung đi đến thì quân Hồi Ca mới tin vào thành ý của ta. Nếu mang theo kỵ binh tinh nhuệ thì quân Hồi Ca làm sao dám ký hồi ước. Thêm nữa, 500 kỵ binh đứng trước 10 vạn mãnh hổ thì làm được việc gì đây?". Nói xong chỉ đem theo một số kỵ binh lên ngựa đi thẳng.
Con trai thứ ba của Quách Tử Nghi là Quách Hi vội vàng chạy lên phía trước giữ ngựa lại khuyên rằng. "Phụ thân là bậc đại nguyên soái của đất nước, sao lại coi nhẹ việc vào hang hùm, ngộ nhỡ có việc gì xảy ra thì hối hận cũng không kịp nữa rồi!". Quách Tử Nghi nói "Với tình thế hiện nay thì dù cho ta có tử chiến với họ cũng chỉ có thể làm cho cha con ta đều chết, Đại Đường khó mà bảo toàn. Còn nếu khuyên được họ thì thực là cái may mắn của đất nước, vì hạnh phúc của muôn dân thì tiếc chi sự an nguy của một mình lão già này? Thắng lợi lần này chỉ có thể hy vọng vào kế sách biết là nguy hiểm mà cố ý làm cho không nguy hiểm". Nói xong vung roi rút tay Quách Hi ra, hét lên: "Đi!", thúc ngựa phi nước đại thẳng tiến về phía doanh trại Hồi Ca.

Người Hồi Ca thấy Quách Tử Nghi đơn thương độc mã đến, nhao nhao xuống ngựa bái kiến. Quách Tử Nghi vào doanh trại của địch mà thần thái tự nhiên như đi gặp một người bạn cũ có chút lỗi lầm, nắm chặt tay thủ lĩnh Hồi Ca là Dược Cát La, khẩn thiết nói cho ông ta hiểu về tình về lý. Đồng thời nói thêm rằng quân Thổ Phồn đã thừa lúc loạn lạc vào thành cướp bóc vô số của cải của nhà Đường. Chỉ cần Hồi Ca đồng ý thì nhà Đường sẽ để cho Hồi Ca tùy ý lấy lại và sẽ thuộc về họ.
Dược Cát La thấy Tử Nghi một mình một ngựa đến, lại trước sau như một coi mình là người bạn trung thực nên mới nói ra nguyên nhân và nội dung ông ta bị Phó Cố Hoài ân lừa dối: Hoài ân nói rằng thiên tử nhà Đường chết rồi, Quách lệnh công cũng đã hy sinh thân mình. Nay để báo đáp lòng tin của lệnh công, nguyện cùng Quách Tử Nghi thề chết lập minh, kết tình hữu hảo, cùng nhau tấn công Thổ Phồn.
Thủ lĩnh Thổ Phồn sau khi biết được tin báo đó, vội vàng dẫn quân bỏ chạy. Hồi Ca và quân Đường cùng nhau truy kích, Thổ Phồn chạy tan tác. Nhà Đường đã chuyển nguy thành an. “Khổ nhục kế" vốn là một kế lừa dối tuyệt mật, Quách Tử Nghi một mình một ngựa bày tỏ lòng tin, không sợ hiểm nguy nên đường đường chính chính được coi là kế "quang minh". Quách Tử Nghi quả không hổ là một danh tướng quang minh lỗi lạc và tài ba trong việc dùng diệu kế. Trong kinh doanh thương mại việc vận dụng kế "khổ nhục thị tín" cũng rất đa dạng. Dưới đây là một ví dụ đáng để làm tấm gương.
Ở miền Tây Philadenphia của Mỹ có hai cửa hàng đối địch với nhau, một cái là cửa hàng thương mại New York, một cái là cửa hàng thương mại châu Mỹ. Hai cửa hàng ở sát cạnh nhau, hai ông chủ cửa hàng là những kẻ thù không đội trời chung trong cuộc cạnh tranh giá cả kịch liệt.
Trên cửa sổ của cửa hàng New York có dòng chữ: "Bán chăn bằng sợi đay, chất lượng tốt, hoàn mỹ, giá cả phải chăng mỗi chiếc 6,50 đô la". Ngay sau đó trên cửa sổ của cửa hàng châu Mỹ xuất hiện dòng chữ: "Mọi người hãy xem kỹ, chăn của cửa hàng chất lượng hàng đầu thế giới, giá 5,95 đô la".
Không chỉ cạnh tranh thông qua việc quảng cáo mà họ còn thường xuyên phá đám, chửi bới, thậm chí còn đánh nhau. Sau cùng, một người trong số họ sẽ rút lui khỏi cuộc cạnh tranh, rêu rao rằng ông chủ cửa hàng kia là người điên, một kẻ điên sẵn sàng phá sản để đánh đổ "tôi", ai mua hàng ở đó cũng là kẻ điên. Thế là mọi người chen chúc nhau đi sang cửa hàng đã giành được phần thắng, đi thẳng đến để mua hết loại có "giá phá sản". Mọi người ở vùng này đều thấy vì hai người đó không ngừng cạnh tranh mà họ mua được hàng hóa đẹp giá lại rẻ.
Song có một hôm, một trong hai ông chủ của hai cửa hàng đó mất. Sau vài hôm, ông chủ còn lại đóng cửa hàng, chuyển nhà đi nơi khác. Mọi người không thấy hai ông đâu nữa. Khi người chủ mới của căn nhà đến thanh lý mới phát hiện ra giữa hai căn nhà đó có một đường ngầm thông nhau, cửa hàng của họ ở phía dưới căn buồng đó. Sau khi điều tra thì hóa ra hai ông chủ đó lại là anh em với nhau.
Chửi mắng, dọa nạt và những sự công kích khác là cái gì?
Thực ra tất cả chỉ là biểu diễn "lò xo" mà thôi. Tất cả những việc làm tổn hại đến nhân cách đều là lừa dối, ai giành được “thắng lợi" thì người đó cũng là người làm cho hàng hóa của cả hai cửa hàng bán chạy.
Trong kinh doanh của hai anh em họ có xen "khổ nhục kế” và đã lừa được mọi người hơn 30 năm. Hàng mà họ bán ra có thể chỉ là hàng loại hai, giá thì cao nhưng thủ đoạn dùng mưu kế của họ thì lại hơn cả loại "hàng đầu” .

Chương 64

Phân hóa để làm tan rả, phá từng thứ một
Sau khi trải qua 8 năm loạn An - Sử, vương triều Đường đã sức cùng lực kiệt nên đành phải chấp nhận sự đầu hàng của phiến quân, cho phép chúng làm Tiết độ sứ ở đó, cát cứ một phương. Vào thời Đường Huyền Tông ở biên giới đã có 10 Tiết độ sứ. Trong quá trình dẹp loạn, để tiện cho việc đánh trận, trù lương lại có thêm hàng loạt các vị Tiết độ sứ ở Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Tây, Hà Nam, Sơn Đông; để chống lại nguy cơ lợi dụng sơ hở để xâm nhập của Thổ Phồn, lại có thêm rất nhiều Tiết độ sứ ở Hà Tây, Lũng Hữu, Tứ Xuyên và thêm cả An sứ dư bộ, cả nước đã có tới 40 Tiết độ sứ. Đường Đại Tông luôn luôn nghi kỵ công thần, lại sợ các tướng soái có quyền hành lớn sẽ bắt chước An Lộc Sơn phản chủ, không những không áp dụng những biện pháp mạnh để hạn chế tập quyền mà ngược lại còn nhân nhượng vô nguyên tắc đối với các Tiết độ sứ có binh lực mạnh. Một số người có thế lực còn công khai yêu cầu quyền kế thừa Tiết độ sứ phải là cha truyền con nối hoặc do các tướng sĩ lập nên. Sau đó dứt khoát không chịu nghe theo sự bổ nhiệm của triều đình. Bọn họ tập trung đại quyền: quân đội, chính trị, của cải vào mình, trở thành nước trong nước. "Từ quốc môn" (chỉ kinh thành) trước đây đều đã phân chia thành phương trấn rồi. Điều đó có nghĩa là cục diện "Phiên trấn cát cứ”, kéo dài từ loạn An - Sử cho đến khi nhà Đường bị diệt vong. Từ đó trở đi, cuộc đấu tranh giữa các thế lực cát cứ địa phương với chính quyền trung ương nhà Đường chưa bao giờ ngừng lại dù chỉ một khắc và đã trở thành một trong những nội dung chủ yếu của lịch sử nhà Đường.
Năm 773 sau Công nguyên, Tiết độ sứ Ngụy Bác vì để dụ dỗ các tướng lĩnh thân cận của An - Sử đến đầu hàng mình nên không thèm để ý đến ý kiến của triều đình, đã công nhiên lập "Tứ thánh từ" cho cha con An - Sử để tưởng nhớ đến bạn cũ, lại còn yêu cầu Đường Đại Tông phong cho mình chức Tể tướng. Đường Đại Tông tuy trong lòng rất tức giận bất bình nhưng chẳng còn cách nào nên vẫn phải phong cho ông ta làm Tể tướng, gả con gái mình là Vĩnh Lạc công chúa cho con trai ông ta.
Đầu năm 775 sau Công nguyên, Điền Thừa Tự công thành đoạt dã, ngạo mạn vô lễ chọc giận rất nhiều Tiết độ sứ. Thành Đức Tiết độ sứ Lý Bảo Thần, Tri Thanh Tiết độ sứ Lý Chính Kỷ chủ động cầu xin nhà Đường đồng ý đánh dẹp Điền Thừa Tự. Đường Đại Tông cũng muốn nhân cơ hội này trừ bỏ Điền Thừa Tự, vì thế đã hạ lệnh cho Tiết độ sứ Ngụy Bác từ bốn phía bao vây để tiêu diệt Điền Thừa Tự.

Điền Thừa Tự tuy dũng mãnh hơn người nhưng không thể lấy ít địch nhiều. Sau vài lần giao chiến, cháu của ông ta là Điền Duyệt bị đại bại, kiêu tướng Lô Tử Kỳ bị bắt làm tù binh, các phó tướng Hoạch Vinh Quốc, Bùi Chí Thanh lần lượt phản bội, quân Đường từ bốn mặt hợp vây. Lý Bảo Thần và Lý Chính Kỷ đã hợp binh ở một nơi, chuẩn bị cắt ngang Ngụy Bác. Điền Thừa Tự thấy vậy vô cùng hốt hoảng, nhưng trong lúc khẩn cấp bỗng nghĩ ra kế "Phân hóa để làm tan rã, từng bước đột phá" để hóa giải thế bao vây chặt và chặn ngang lưng.
Tháng 9, Điền Thừa Tự lệnh cho một số binh lính lần lượt ngụy trang thành binh sĩ của Lý Bảo Thần và Lý Chính Kỷ, sau đó truyền bá cho nhau về chuyện thưởng phạt, lương hưởng bên này nhiều bên kia ít để gây mâu thuẫn, thực hiện kế ly gián. Quân lính của Lý Chính Kỷ nghe nói quân Thành Đức được đãi ngộ hậu hĩnh thì bắt đầu có lời oán thán. Lý Chính Kỷ sợ binh lính bất ngờ làm phản vội vàng lui binh. Lý Bảo Thần thấy thế cũng rút lui theo. Thế là Điền Thừa Tự đã trừ bỏ được mối nguy hiểm "bị chém ngang lưng" đồng thời kéo rộng lỗ hổng của vòng vây ở hai phía tây bắc và tây nam, chiến cục bất ngờ dịu đi.
Tháng 10, Điền Thừa Tự lại sai người đem những con số về quân số, số áo giáp và binh khí, quân lương đi du thuyết Lý Chính Kỷ: "Thừa Tự tuổi đã quá 80, sắp đến lúc chết rồi. Các con chẳng ra gì mà cháu là Điền Duyệt thì càng bất tài. Những gì hôm nay ông ấy làm chẳng qua cũng chỉ là cơ sở để sau này người xây dựng sự nghiệp lớn. Người cần gì phải hao binh tổn tướng để tự hủy hoại cơ nghiệp của mình?". Lý Chính Kỷ nghĩ lại thấy Điền Thừa Tự cũng đã 70-80 tuổi, con của ông ta thì chẳng phải đối thủ của mình, gia nghiệp Điền Thừa Tự sớm muộn gì chẳng về tay mình, thế là vô cùng vui sướng, án binh bất động. Các đạo quân Hà Nam ở gần Lý Chính Kỷ cũng vì thế mà không dám tiến lên.
Chiến tranh phía nam tạm dừng, Điền Thừa Tự cũng trừ được mối lo ở phía nam, thoát khỏi tình thế bất lợi bị bao vây tấn công, tập trung được lực lượng để lo phòng ngự phía bắc.
Mối đe dọa ở phía bắc chủ yếu là từ Thành Đức quân Lý Bảo Thần và Phạm Dương quân Chu Thao. Điền Thừa Tự thừa hiểu rằng Lý Bảo Thần muốn có được địa bàn của Chu Thao - cố hương Phạm Dương. Vì thế ông ta bí mật sai người chôn một hòn đá trong thành Phạm Dương, trên đó có khắc hai câu: “Nhị đế đồng công thế vạn toàn, tướng Điền vi lữ nhân uyến". Sau đó lại sai thuật sĩ đi nói với Lý Bảo Thần rằng Phạm Dương có thiên tử khí, nên cố gắng giành lấy, đồng thời đem theo hòn đá chôn trước đó vừa đào được cho Bảo Thần xem. Lý Bảo Thần xem bài văn trên đá, nhất thời không hiểu nghĩa. Vừa lúc đó Điền Thừa Tự gửi tới một bức thư, hẹn cùng với Lý Bảo Thần cùng nhau liên kết tấn công Phạm Dương, sau khi giành được Phạm Dương sẽ thuộc về Bảo Thần, Điền Thừa Tự thì chỉ là "lân bang". Lý Bảo Thần thấy lời của thuật sĩ, bài văn trên đá và thư của Điền Thừa Tự hoàn toàn giống nhau, chắc chắn là ý trời đã định, liền phái đội quân tinh nhuệ đánh Phạm Dương. Một mặt đốc thúc Điền Thừa Tự nhanh chóng dẫn binh đến vây đánh. Điền Thừa Tự lại gửi thư tới nói rằng: “Trong thành đang có loạn lạc, không có cách nào dẫn quân tới được. Chữ viết trên tảng đá chỉ là nghi ngờ thôi chứ không phải là sự thực." Lý Bảo Thần thấy vậy vô cùng tức giận, Chu Thao đã quay trở về thành Phạm Dương trấn thủ nên Lý Bảo Thần đành phải rút quân về, không những không đánh được Điền Thừa Tự mà còn phải đề phòng Điền Thừa Tự đến tiến công mình.

Lúc ấy, Điền Thừa Tự giải quyết được nguy cơ ở phía Bắc, thế trận bao vây của nhà Đường đã bị thất bại. Điền Thừa Tự lại dâng biểu tạ tội, Đường Đại Tông một lần nữa không có cách nào khác đành miễn tội cho Điền Thừa Tự và khôi phục lại quan tước cho ông ta. “Nhân hóa tan rã, trúc nhất đột phá" là kế tốt để bảo toàn lực lượng, hóa giải trùng vây không tốn giọt máu nào, chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong cạnh tranh kinh tế, tình huống đối mặt với nhiều đối thủ là rất nhiều, do vậy dựa vào kế này để giải thoát khó khăn biến yếu thành mạnh là vô cùng cần thiết.

Ở Tây âu có 3 công ty A, B, C cùng kinh doanh một mặt hàng như nhau. Trong đó công ty A lớn nhất, thực lực hùng hậu nhất. Còn hai công ty nhỏ B, C trước thế lực đàn áp của công ty A dần dần nảy ra ý phản kháng. Tuy thực lực lực của công ty A hùng hậu nhưng nếu liên hợp với B và C thì rất khó, đừng nói gì sát nhập 2 công ty mà ngay cả duy trì thị trường trước mắt e rằng chẳng được. Do vậy, công ty A đã áp dụng sách lược "phân hóa để làm tan rã, đánh đổ từng thứ".
Một hôm, đại diện đàm phán của công ty A chủ động tới gặp công ty B tiến hành đàm phán. Đại diện của công ty A tiết lộ ý của công ty C, nói là công ty C đã đề xuất yêu cầu tiến hành hợp tác với công ty A, hy vọng vấn đề này sẽ giải quyết sớm, đồng thời cho rằng toàn bộ thị trường sẽ do hai công ty tự do phát triển. Sau đó công ty A đề xuất với công ty B: công ty A tuy ngầm liên hợp với công ty C đối kháng công ty B, nhưng suy nghĩ kỹ vẫn muốn hợp tác với công ty B vì quí công ty có tương lai hơn. Đợi sau khi giành được thị trường của công ty C, chúng ta sẽ chia đôi, không biết ý kiến của quí công ty thế nào.
Sau khi thảo luận nghiêm túc, công ty B thấy bản thân không thể đối kháng được công ty A, huống hồ cả công ty A và C hợp lại, cho nên đồng ý liên minh với công ty A.
Ngày hôm sau, cuộc đàm phán diễn ra, người phụ trách công ty B ngồi vào đàm phán và nói "Vô cùng cảm ơn thành ý hợp tác của lãnh đạo công ty nhưng ý kiến chia 50/50 mà công ty đưa ra chúng tôi không dám nhận, cứ dựa vào thực lực thì chúng tôi chỉ lấy 40 thôi". Cuộc đàm phán đã đạt được thành công tốt đẹp.
Không lâu sau thị trường của công ty C nhanh chóng rơi vào tay của 2 công ty A, B. Nhưng cũng cách đó chẳng lâu, công ty B hoàn toàn tuyên bố phá sản. Thị trường Tây âu bị công ty A thống lĩnh.
anh sex
truyen dam
phim sex hay
truyen sex hay
truyen lau xanh
truyen loan luan
truyen nguoi lon
truyen sex hoc sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét